Gần đây nhất, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nêu một trong các nhiệm vụ để chấn hưng văn hóa Việt Nam, đó là “Đề cao, phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, của những người làm công tác văn hóa” (2).
Có thể nói, vai trò của đội ngũ văn nghệ sĩ trên “mặt trận văn hóa” luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, đề cao. Để thực hiện tốt vai trò cả về mặt kinh tế, chính trị và xã hội, đội ngũ văn nghệ sĩ cần phải phát triển cả về số lượng và chất lượng, trên cơ sở nắm vững đường lối, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của Đảng, mà khởi nguồn từ Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943.
Trong Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, đồng chí Trường Chinh đã nêu ba nguyên tắc vận động cuộc vận động văn hóa, đó là: Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập); Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng); Khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ) (3).
Suốt 80 năm qua, ba nguyên tắc này được Đảng ta vận dụng đúng đắn trong chỉ đạo mọi mặt của đời sống văn hóa, nghệ thuật, trong đó có vấn đề phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ.
Nói đến phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa nói chung, đội ngũ văn nghệ sĩ cách mạng Việt Nam nói riêng, các nhà nghiên cứu khoa học, các nhà quản lý văn hóa thường tập trung vào các nội dung: đào tạo, bồi dưỡng và tạo môi trường phát huy năng lực sáng tạo. Để đội ngũ những người làm nghệ thuật thực sự trở thành những văn nghệ sĩ - chiến sĩ cách mạng thì trong từng nội dung trên phải vận dụng đầy đủ các nguyên tắc của Đề cương về văn hóa Việt Nam cũng như các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Cụ thể:
Với công tác đào tạo, bồi dưỡng
Cần xác định đào tạo người nghệ sĩ không chỉ có tài năng, kiến thức chuyên môn mà còn phải có đạo đức, phẩm chất chính trị vững vàng. Người nghệ sĩ phải là người có tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc. Hơn ai hết, họ phải là người nắm giữ những giá trị tinh hoa của văn hóa dân tộc, từ đó mới góp phần đưa những giá trị đó đến với công chúng thông qua các sáng tác, biểu diễn của bản thân. Người nghệ sĩ cũng cần ý thức được vai trò phụng sự dân tộc, phục vụ nhân dân của mình. Văn hóa mang tính đại chúng, các tác phẩm văn học, nghệ thuật cũng không thể tách rời quần chúng nhân dân. Nền nghệ thuật cách mạng là một nền nghệ thuật “vị nhân sinh”. Người nghệ sĩ cách mạng là người bằng tài năng của mình góp phần làm đẹp thêm cho đời, làm phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, tức là phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh” (4) và Người không quên nhắc nhở: “Chiến sĩ nghệ thuật cần có lập trường vững, tư tưởng đúng... phải đặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết” (5).
Để có được những điều này, bên cạnh đào tạo chuyên môn cho sinh viên, các trường đại học ngành nghệ thuật cần chú trọng giáo dục các giá trị văn hóa. Bản thân người nghệ sĩ cũng phải luôn có ý thức trau dồi, học tập, nâng cao bản lĩnh chính trị, sống trong sáng, trở thành những tấm gương truyền cảm hứng về chân - thiện - mỹ cho xã hội.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, với sự tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số, áp lực đặt lên vai những người làm nghệ thuật - những công việc mang tính sáng tạo, ngày càng nặng nề, đòi hỏi họ phải nỗ lực trau dồi chuyên môn, cập nhật cái mới, cái tiến bộ. Trong những năm gần đây, có thể thấy, đội ngũ văn nghệ sĩ của chúng ta đang ngày càng khẳng định được tài năng, bản sắc, vị trí của cá nhân trong nền nghệ thuật chung của nhân loại. Công tác đào tạo, vì thế, càng phải nắm vững nguyên tắc khoa học, để ngày càng đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng đào tạo.
Tạo môi trường phát huy năng lực sáng tạo: ở đây cụ thể là hoàn thiện thể chế tăng cường chế độ đãi ngộ, khen thưởng và tích cực phát huy vai trò của văn nghệ sĩ trong mọi mặt của đời sống xã hội
Hiện nay, nhiều ý kiến cho rằng, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật còn nhiều hạn chế, nhiều rào cản. Nhiều quy định kiểm duyệt khiến cho người nghệ sĩ không phát huy được năng lực sáng tạo của bản thân. Những hạn chế này đang từng bước được khắc phục, sửa đổi, bổ sung theo hướng tiệm cận, hội nhập với quy định chung của thế giới. Tuy nhiên, dù các quan điểm về quản lý có đổi mới và hiện đại đến đâu, các sáng tác văn học, nghệ thuật, các chương trình biểu diễn nghệ thuật được thực hiện vẫn phải bảo đảm các yếu tố dân tộc, đại chúng và khoa học. Nghĩa là các tác phẩm văn học nghệ thuật, các chương trình biểu diễn nghệ thuật phải đáp ứng quy định về thuần phong mỹ tục, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, phục vụ đại bộ phận quần chúng nhân dân, mang giá trị khoa học và tiến bộ.
Các chế độ đãi ngộ, khen thưởng cho văn nghệ sĩ cũng dựa trên tinh thần đề cao những cống hiến mang tính dân tộc, đại chúng. Theo đó, các cơ quan quản lý nhà nước cần có biện pháp biểu dương, khuyến khích, khen thưởng các nghệ sĩ sáng tác và biểu diễn các tác phẩm văn học, nghệ thuật có tác dụng ca ngợi Tổ quốc, đất nước, tình yêu quê hương, lòng tự hào dân tộc; khuyến khích các tác phẩm văn học, nghệ thuật tiếp nhận cái mới, bắt kịp xu thế của thời đại, hội nhập với văn hóa thế giới; ngăn chặn, đẩy lùi các hiện tượng xâm nhập của văn hóa ngoại lai, các biểu hiện lệch lạc, thiếu văn hóa trong các tác phẩm văn học, nghệ thuật, giáo dục; chấn chỉnh, thậm chí xử phạt nặng các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật không đạt chất lượng, phản cảm, các nghệ sĩ có hành vi, lối sống lệch chuẩn văn hóa.
Vai trò của văn nghệ sĩ phải được phát huy trong mọi mặt của đời sống xã hội. Các tác phẩm nghệ thuật không chỉ là món ăn tinh thần, mà còn góp phần giáo dục các giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống, góp phần cổ vũ, động viên, tiếp thêm sức mạnh cho quần chúng nhân dân trong học tập, lao động, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các tác phẩm nghệ thuật cũng đóng góp giá trị về mặt kinh tế lớn. Vì vậy, đội ngũ văn nghệ sĩ phải được khuyến khích, tạo điều kiện tham gia vào các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước để thể hiện những vấn đề của cuộc sống và góp phần phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra yêu cầu quan trọng bậc nhất đối với chiến sĩ văn nghệ là phải thật hòa mình với quần chúng và không được quên rằng: chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng cho sáng tác của nhà văn bằng những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên điều đó, nhân dân cũng sẽ quên anh ta.
Đội ngũ văn nghệ sĩ có định hướng và mục tiêu rõ ràng
Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 có thể coi như cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa. Các quan điểm mang tính nền tảng về sự vận động và phát triển của nền văn hóa Việt Nam mới được tiếp tục kế thừa trong các văn kiện tiếp theo của Đảng về văn hóa.
Kế thừa và phát huy những quan điểm xuyên suốt của Đảng, trong nhiều năm qua, trải qua nhiều giai đoạn của đất nước, từ chiến tranh đến hòa bình, đổi mới, đội ngũ văn nghệ sĩ luôn có định hướng và mục tiêu đúng đắn trong việc góp phần xây dựng và phát triển văn hóa.
Đất nước giành độc lập sau hơn 80 năm dưới ách thống trị, đô hộ của thực dân Pháp là niềm vui, cảm hứng lớn lao của người nghệ sĩ. Tiếp nhận ánh sáng soi đường từ Đề cương về văn hóa Việt Nam, trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, đội ngũ văn nghệ sĩ đi theo cách mạng gồm những người đã nổi tiếng ở giai đoạn trước như Xuân Diệu, Huy Cận, Tô Hoài, Nam Cao, Văn Cao, Tô Ngọc Vân... và những người trưởng thành trong cách mạng như Nguyễn Đình Thi, Quang Dũng, Chính Hữu, Hoàng Vân... Cuộc cách mạng dân tộc đã mở đường cho cuộc cách mạng trong nhận thức sáng tác của các văn nghệ sĩ. Tuy sự thay đổi nhân sinh quan, tiếp nhận quan điểm, định hướng mới của Đảng từ các văn nghệ sĩ có khác nhau, song tất cả đều tình nguyện, say mê sáng tạo, dần dần ý thức được “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy...” như lời Bác Hồ căn dặn.
Trong bút ký Nhận đường, nhà văn Nguyễn Đình Thi đã khẳng định: “Văn nghệ phụng sự chiến đấu, nhưng chính kháng chiến đem đến cho văn nghệ một sức sống mới. Sắt lửa mặt trận đang đúc nên văn nghệ mới của chúng ta”.
Cũng từ đây, qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước, đội ngũ văn nghệ sĩ ý thức sâu sắc vai trò, nhiệm vụ của mình trong việc góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân chiến đấu, giành độc lập dân tộc. Trong giai đoạn này, hàng loạt các tác phẩm văn học, nghệ thuật đỉnh cao đã ra đời. Các tác phẩm không chỉ mang tính chiến đấu mà còn thể hiện tình quân dân, tình yêu quê hương đất nước tha thiết.
Trong thời kỳ đổi mới, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) về xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã khẳng định: các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương...
Đặc biệt, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9-6-2014 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, Đảng ta đã nêu 5 quan điểm chính để phát triển văn hóa gồm: 1- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội; 2- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; 3- Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, có lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo; 4- Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế; 5- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng (6).
Những quan điểm đổi mới của Đảng đã nâng cao hơn nữa vai trò của văn hóa, tạo điều kiện, môi trường để văn nghệ sĩ tăng sức sáng tạo. Trong thời kỳ hội nhập và phát triển, khi nhu cầu thưởng thức văn hóa, nghệ thuật được nâng cao, văn học, nghệ thuật có cơ hội ngày càng phát triển rực rỡ với diện mạo vô cùng phong phú, đa dạng. Trong đó, có rất nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật ca ngợi vẻ đẹp quê hương, đất nước, con người Việt Nam, cổ vũ tinh thần lao động, cống hiến xây dựng đất nước được sự đón nhận nhiệt tình của công chúng. Đặc biệt, trong giai đoạn dịch bệnh COVID-19 diễn ra, một lần nữa, văn nghệ sĩ lại thể hiện vai trò xung kích, chung tay cùng toàn Đảng, toàn dân chiến đấu và chiến thắng đại dịch với nhiều ca khúc âm nhạc, nhiều tác phẩm nghệ thuật... đi vào lòng người.
Văn nghệ sĩ được mở rộng thế giới quan, tiếp cận với nguồn cảm hứng từ đất nước, quê hương, con người
Trong những giai đoạn nhất định của lịch sử, quan điểm sáng tác văn học, nghệ thuật đứng giữa 2 luồng ý kiến tranh luận “nghệ thuật vị nghệ thuật” và “nghệ thuật vị nhân sinh”. Với ba nguyên tắc: dân tộc, đại chúng và khoa học được nêu rõ trong Đề cương về văn hóa Việt Nam, Đảng ta đã khẳng định rõ vai trò của văn học, nghệ thuật cách mạng là phụng sự dân tộc, phụng sự nhân dân. Chính từ đây, người nghệ sĩ dần dần thay đổi thế giới quan, tìm đến những đối tượng sáng tác mới. Các tác phẩm văn học, nghệ thuật không chỉ còn phản ánh cái tôi cá nhân, cảm xúc của bản thân mà tiếp cận, tìm cảm hứng sáng tác từ đất nước, quê hương, con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng yêu cầu các văn nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật phải: “Miêu tả cho hay, cho chân thật và cho hùng hồn những người, những việc ấy, bằng văn, bằng thơ, bằng vẽ và bằng các nghệ thuật khác... Đó cũng là một trách nhiệm của các cán bộ văn nghệ góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà” (7).
Trong bài nói chuyện tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ III, Người nhấn mạnh: “Quần chúng đang chờ đợi những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại vẻ vang của chúng ta, những tác phẩm ca tụng chân thật những người mới, việc mới chẳng những để làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay, mà còn để giáo dục con cháu ta đời sau... Quần chúng mong muốn những tác phẩm có nội dung chân thật và phong phú, có hình thức trong sáng và vui tươi. Khi chưa xem thì muốn xem, xem rồi thì có bổ ích ” (8).
Cũng chính từ định hướng quan điểm của Đảng và Bác, đời sống văn hóa, nghệ thuật ngày càng phong phú, các tác phẩm nghệ thuật ngày càng phản ánh trung thành hiện thực cuộc sống, góp tiếng nói chiến đấu, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghị quyết 33/NQ-TW đã nhận định: “Còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có một số tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp, thậm chí có hại. Hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật chưa theo kịp thực tiễn sáng tác”. Nghị quyết cũng chỉ ra một trong những nguyên nhân của thực trạng trên là “chưa quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”.
Các chuyên gia về quản lý, đào tạo văn hóa, nghệ thuật cũng nhận định “nguồn nhân lực văn hóa, nghệ thuật vẫn phải đối diện với một số vấn đề cần giải quyết: (i) về chuyên môn: một số bộ phận nguồn nhân lực văn hóa nghệ thuật chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng; (ii) về ngoại ngữ: năng lực ngoại ngữ còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc giao lưu, hội nhập quốc tế; (iii) năng lực sáng tạo: chưa thực sự theo kịp đổi mới sáng tạo với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới (9).
Có thể thấy, vấn đề đặt ra đối với việc phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ hiện nay là làm sao đào tạo, bồi dưỡng được những người làm nghệ thuật vừa có chuyên môn, vừa có phẩm chất đạo đức, chính trị vững vàng, vừa có tâm huyết với nghề, vừa có tinh thần cống hiến cho Tổ quốc, cho nhân dân. Tuy nhiên, thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát huy năng lực sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ hiện nay, bên cạnh những thành tích đã đạt được, vẫn còn nhiều hạn chế, khó khăn.
Công tác đào tạo
Thực tế hiện nay, số lượng tuyển sinh hằng năm của các trường khối ngành nghệ thuật vẫn còn hạn chế và ít có biến động gia tăng. Năm 2022, theo báo cáo của Bộ VHTTDL, tổng chỉ tiêu khối văn hóa, nghệ thuật là 6.311, tuyển được 4.294 chỉ tiêu, đạt 68%, trong đó các trường đại học ngành nghệ thuật tỷ lệ tuyển sinh vẫn thấp. Theo đại diện một số trường đại học nghệ thuật, nhiều năm nay tình trạng thí sinh dự thi vào các ngành nghệ thuật ngày càng có xu hướng giảm. Có nhiều nguyên nhân khiến học sinh không lựa chọn các khối ngành đào tạo nghệ thuật. Ngoài nguyên nhân học xong khó kiếm việc làm thì hiện nay đang có một xu hướng học sinh xem các ngành khối nghệ thuật là một kỹ năng chứ không phải là một nghề nên nhiều em tự trang bị, bồi dưỡng năng khiếu ở các cơ sở đào tạo bên ngoài nhà trường. Thực tế cho thấy, nhiều cơ sở đào tạo nghệ thuật tư nhân, dân lập lại hoạt động tốt, trong khi các trường nghệ thuật đào tạo bài bản lại vắng bóng sinh viên.
Hình thức đào tạo tại các trường còn không ít bất cập: chất lượng tuyển sinh đầu vào thấp; chất lượng đào tạo chuyên môn không phù hợp với yêu cầu thực tế của đơn vị biểu diễn; lực lượng giảng viên có tài năng còn mỏng; số tiết học các môn văn hóa nhiều hơn so với học chuyên môn; dẫn đến hiện tượng không nắm vững được những kiến thức cơ bản về chuyên môn... Các chương trình giáo dục văn hóa, trau dồi phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị cho học sinh, sinh viên nói chung và học sinh, sinh viên các trường nghệ thuật nói riêng còn máy móc, sách vở, thiếu hiệu quả.
Chế độ, chính sách
Sau 15 năm ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16-6-2008 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới, công tác thể chế hóa chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ở một số lĩnh vực còn chậm, nhiều chính sách đã ban hành nhưng chưa đi vào cuộc sống. Trong đó, các chính sách bồi dưỡng, đãi ngộ cho đội ngũ văn nghệ sĩ chưa thật sự tạo sự chuyển biến; các chính sách về lương, phụ cấp đối với nghệ sĩ nhìn chung còn thấp, chế độ đãi ngộ, đầu tư còn hạn chế, thiếu sự động viên khuyến khích.
Mới đây nhất là sự ra đời của Thông tư số 10/2022/TT-BVHTTDL “Quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và xếp lương viên chức chuyên ngành nghệ thuật biểu diễn và điện ảnh”. Thông tư áp dụng đối với viên chức chuyên ngành nghệ thuật biểu diễn và điện ảnh làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập, gồm: 1. Nhóm chức danh đạo diễn nghệ thuật: đạo diễn sân khấu; đạo diễn điện ảnh; biên đạo múa; huấn luyện múa; sáng tác, chỉ huy âm nhạc; biên kịch; 2. Chức danh diễn viên là diễn viên hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn và điện ảnh.
Thông tư đã có những đổi mới, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ văn nghệ sĩ. Tuy nhiên, nhìn vào thực tế, với mức lương trung bình 3.000.000-5.000.000 đồng/ tháng, đa phần các văn nghệ sĩ không đủ kinh phí để trang trải cuộc sống. Mức lương của nhiều nghệ sĩ trẻ trong một tháng không bằng cát-xê đi diễn trong 1 buổi. Ngoài lương, theo quy định, các nghệ sĩ được hưởng phụ cấp ưu đãi nghề 15% theo hệ số lương (với nhạc công) và 20% (với diễn viên); phụ cấp độc hại (hay gọi thanh sắc) là 0,3% (với diễn viên) và 0,2% (với nhạc công) nhưng các khoản này cũng là không đáng kể so với công sức lao động nghệ thuật.
Các chính sách khen thưởng, bồi dưỡng ở các địa phương, các hội nghề nghiệp còn ít, thiếu đồng bộ, chậm chuyển đổi cho phù hợp với tình hình thực tiễn.
Để phát triển nguồn nhân lực ngành nghệ thuật, “Quy hoạch tổng thể phát triển nghệ thuật biểu diễn đến năm 2020, định hướng đến năm 2030” đã đề ra những giải pháp cơ bản, đó là: tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách; đào tạo nguồn nhân lực; tăng cường huy động các nguồn lực; tuyên truyền nâng cao nhận thức của toàn xã hội; đẩy mạnh hợp tác quốc tế... Cụ thể, có một số nhiệm vụ quan trọng:
Nâng cao nhận thức, bản lĩnh chính trị đối với đội ngũ văn nghệ sĩ. Trong đó quán triệt tinh thần chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về văn hóa, mà khởi nguồn là Đề cương về văn hóa Việt Nam cho đến Nghị quyết Đại hội đại biểu của Đảng toàn quốc lần thứ XIII. Bên cạnh đó, tiếp tục thực hiện các nội dung đổi mới trong Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X “Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn hóa, nghệ thuật trong thời kỳ mới” và Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Thực hiện có hiệu quả Thông báo Kết luận số 213- TB/TW của Ban Bí thư về “Đấu tranh chống quan điểm sai trái trong văn hóa, nghệ thuật” và Chỉ thị số 46-CT/TW của Ban Bí thư về “Chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội”.
Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, nâng cao trách nhiệm công dân, trách nhiệm của văn nghệ sĩ, kêu gọi văn nghệ sĩ tích cực tham gia giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và đấu tranh chống lại các biểu hiện của văn hóa ngoại lai, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Tuyển chọn những cá nhân có năng khiếu đặc biệt (từ tuổi học sinh), có chính sách đào tạo đặc biệt để quy hoạch vào đội ngũ nghệ sĩ trong tương lai vì đào tạo các ngành nghệ thuật đòi hỏi thời gian lâu dài. Có kế hoạch đưa sinh viên có năng khiếu đi đào tạo ngắn hạn hoặc dài hạn tại nước ngoài để tạo nguồn nhân lực cho ngành. Đặc cách tuyển chọn nguồn nhân lực có năng khiếu đặc biệt, được đào tạo chuyên sâu ở nước ngoài, có thành tích quốc tế. Sau khi tuyển chọn, cần có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ, đặc biệt là bồi dưỡng phẩm chất chính trị, ý thức, trách nhiệm cống hiến vì dân tộc, vì nhân dân.
Hoàn thiện chế độ, chính sách cho văn nghệ sĩ, trong đó chú trọng đền ơn đáp nghĩa đối với các thế hệ văn nghệ sĩ có nhiều cống hiến, quan tâm bồi dưỡng lớp văn nghệ sĩ trẻ.
Có chính sách đầu tư trọng tâm, trọng điểm vào một số đơn vị nghệ thuật, nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng kinh phí hoạt động của các đơn vị nghệ thuật. Tăng cường các nguồn hỗ trợ quảng bá tác phẩm văn học, nghệ thuật.
Tăng số lượng và chất lượng các giải thưởng văn học, nghệ thuật hằng năm, nhằm khuyến khích, tôn vinh và thu hút đội ngũ văn nghệ sĩ tham gia thể hiện và cống hiến tài năng cho sự nghiệp văn hóa, nghệ thuật nước nhà.
Đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư (nay là Chủ tịch nước) trong bài phát biểu tại Hội nghị gặp mặt đại biểu trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ năm 2023 ngày 16-2-2023, cũng nêu một số giải pháp để phát triển đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, đó là: “Cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp tiếp tục quán triệt, nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, gắn với vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu. Tập trung hoàn thiện hệ thống thể chế theo hướng tạo động lực để đội ngũ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ phát triển năng lực bản thân, được tạo cơ hội, điều kiện cần thiết, phù hợp với điều kiện đất nước để cống hiến cho Tổ quốc. Xây dựng cơ chế, chính sách thu hút, trọng dụng, đãi ngộ thỏa đáng đối với nhân tài, các nhà khoa học, văn nghệ sĩ người Việt có trình độ chuyên môn cao ở trong nước và ngoài nước. Thật sự tôn trọng và có cơ chế phù hợp để nâng cao chất lượng hoạt động tư vấn, phản biện của chuyên gia, đội ngũ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ đối với những vấn đề của đất nước” (10).
Có thể thấy, từ Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, quan điểm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, đề cao vai trò của đội ngũ văn nghệ sĩ. Đảng cũng định hướng và chỉ rõ nhiệm vụ của văn nghệ sĩ trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Để phát huy được vai trò của mình, xây dựng đội ngũ ngày càng phát triển về số lượng và chất lượng, bản thân mỗi người nghệ sĩ cần ý thức được vai trò, vị trí, trách nhiệm của bản thân trước dân tộc, trước nhân dân, nỗ lực trau dồi cả phẩm chất chính trị và năng lực chuyên môn, vận dụng linh hoạt, sáng tạo ba nguyên tắc: dân tộc, đại chúng và khoa học.
Trích nguồn: tạp chí văn hóa nghệ thuật
____________
1, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.12.
4, 5. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.246.
7, 8. Hồ Chí Minh toàn tập, tập13, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.392, 504-505