Các chàng trai, cô gái dân tộc Mông Thanh Hóa vui đón xuân.
Gầu Tào trong tiếng Mông có nghĩa là “chơi ngoài trời”. Nguồn gốc của lễ hội bắt nguồn từ việc cầu phúc hoặc cầu mệnh của một gia đình. Trong đó, hội cầu phúc xuất phát từ việc gia chủ không có con, thưa con hoặc sinh con một bề, sẽ làm lễ nhờ thầy cúng bói xin cho mở hội Gầu tào cầu con cái. Hội cầu mệnh diễn ra khi gia chủ bị ốm đau bệnh tật, con cái yếu ớt, mùa màng, vật nuôi lụi dần. Thời gian mở hội thường trong khoảng từ ngày mồng một đến ngày mười lăm tháng giêng, kéo dài liên tục trong 3 năm, mỗi năm 3 ngày. Nếu gia đình nào chỉ tổ chức 1 năm thì sẽ kéo dài trong 9 ngày.
Để lễ hội có thể diễn ra, gia đình phải chuẩn bị mọi thứ trong suốt một năm trước đó. Công việc quan trọng nhất là tìm và dựng cây Nêu. Trong tâm thức của người Mông, cây Nêu được coi là cây thiêng, là tín hiệu của hội, của hạnh phúc và sự ấm no. Do vậy, cây Nêu được dựng trong lễ hội phải là cây mai hay cây tre to, ngọn dài và có lá. Tùy mục đích tổ chức lễ hội mà người được cử đi tìm và dựng cây Nêu cũng khác nhau. Nếu là hội cầu phúc, cầu con cái thì gia chủ phải nhờ anh trai, chị dâu (những người có con cả trai, cả gái). Cầu mệnh, mong mọi người trong gia đình đều được mạnh khỏe, đuổi hết bệnh tật ốm đau, làm ăn tấn tới thì cử hai thanh niên khỏe mạnh trong dòng họ đi tìm và dựng nêu.
Lễ dựng Nêu được tổ chức từ ngày 26 đến 29 Tết. Địa điểm dựng Nêu là địa điểm mở hội. Nếu lễ hội tổ chức trong 3 ngày thì chỉ dựng một cây nêu; 9 ngày dựng 3 cây theo hình tam giác. Trên ngọn cây Nêu, người ta thường treo hai sải vải lanh màu đen xen lẫn màu đỏ (biểu tượng của mặt trời). Trên thân cây treo một quả bầu đựng nước, một túm ngô giống, một bó lúa giống (biểu tượng của được mùa, no ấm). Việc dựng Nêu ngoài ý nghĩa tâm linh, cầu khẩn còn là thông điệp báo với bản làng gần xa về việc tổ chức lễ hội, người trong bản hay các vùng khác nhìn thấy sẽ biết năm nay làng này sẽ mở hội Gầu Tào. Dân bản sẽ chuẩn bị áo váy, bố trí thời gian đi dự hội, trai gái ở bản trên bản dưới cũng hẹn ước nhau đầu năm đến bên cây Nêu gặp mặt.
Lễ hội gồm 2 phần: Phần lễ và phần hội. Người quản lý lễ hội là gia chủ. Giúp gia chủ còn có xừ quan (quản lý) chăm lo việc ăn uống, có hấu pầu tờ (quản củi đuốc), hấu pầu giê (trông nom xay, giã, giần sàng) cùng với xừ quan. Lễ vật dâng cúng gồm: Lợn, gà, rượu, giấy bản, bánh dày... Mở đầu phần lễ, gia chủ, thầy mo cùng các già làng, trưởng bản có uy tín nhất sẽ làm lễ cúng mời tổ tiên, thần linh về dự hội và cầu cho năm mới mùa màng bội thu, làm ăn phát đạt, cuộc sống của đồng bào Mông ấm no, may mắn, hạnh phúc.
Sau khi làm lễ cúng thần linh xong, cả bản Mông cùng dắt díu nhau vào hội với các hoạt động văn hóa - văn nghệ dân gian, thể thao dân tộc diễn ra tưng bừng, sôi nổi. Đầu tiên là hội thi hát dân ca Mông, đây là nơi được đông người đến xem nhất. Theo phong tục, các cụ ông, cụ bà, người trung tuổi mở đầu cho hội hát, tiếp đó là trai gái trong các bản Mông... Lúc đầu tập thể nam hát chào hỏi cả tập thể nữ nhưng về sau từng đôi tách riêng ra và lúc này chỉ còn từng đôi hát ống kín đáo, tế nhị, nhịp nhàng, dìu dặt, thủ thỉ tâm tình.
Bên cạnh khu hội hát là hội múa. Các trai bản, thôn nữ lần lượt thử tài nhau qua các điệu múa Sênh tiền, múa Khèn, múa Kiếm, múa Võ tay không, múa Mác, múa Gậy... Đặc sắc nhất trong khu hội này là phần thi đấu Khèn của các chàng trai. Từng động tác nhảy Khèn đã lột tả nét phóng khoáng, sự mãnh liệt, ý chí và nghị lực của các chàng trai Mông, mỗi bước chân khi lên xuống tạo cảm giác như họ muốn băng rừng, bạt núi, chinh phục tất cả những thử thách của thiên nhiên. Mỗi khi nhảy, các chàng trai như hòa vào đất trời, phiêu đãng cùng mây và gió khiến cho mỗi động tác vừa dũng mãnh nhưng lại rất nên thơ, trữ tình. Đây cũng là dịp để những chàng trai thể hiện sự tài hoa, mạnh mẽ của mình chinh phục các cô gái.
Ngoài ra còn có một số trò chơi truyền thống như: Đánh quay, Đẩy gậy, Kéo co, Đá bóng... Tất cả khiến cho không khí lễ hội càng thêm phần nhộn nhịp. Điều đặc biệt khi đến với Lễ hội đó là khách tham gia sẽ mang góp một thứ theo khả năng của họ. Người thì ống gạo, người thì ngô, người lại mang theo hũ rượu, xách đôi gà... ai mang đến đều phải vào làm lễ cầu chúc gia chủ trước tiên, sau là cầu chúc cho mọi người yên vui khỏe mạnh, cho mùa màng bội thu, lợn gà đầy chuồng, đầy sân. Đáp lễ, chủ nhà nói lời cảm tạ và biết ơn ghi sâu lòng hào phóng của khách. Khi màn đêm buông xuống khách xa, người cao tuổi được mời về nhà gia chủ nghỉ ngơi còn mọi người (phần lớn là nam nữ thanh niên) đốt những đống lửa to ngồi quây quần hát đối đáp dân ca Mông, nghe thổi sáo, đàn môi. Tiếng sáo, đàn môi nghe thật bồi hồi, xao xuyến. Từ đêm hội này, nhiều đôi trai gái Mông đã nên duyên vợ chồng.
Kết thúc Lễ hội, thay mặt gia chủ thầy cúng tạ ơn tổ tiên, trời đất, thần linh và xin phép hạ Nêu, đốt thẻ giấy, hốt than cho vào gáo nước, vừa đi vừa cầu khấn. Sau mỗi đoạn khấn vái, thầy lại hớp một ngụm nước phun ra xung quanh, gia chủ cầm bầu rượu hạ từ trên nây nêu vẩy ra bốn phía với mục đích cầu mong sự may mắn và thịnh vượng sẽ lan tỏa đến khắp nơi. Gia chủ cầm mảnh vải đỏ mang về treo trong nhà để cầu mong hạnh phúc đời đời.
Từ bao đời nay, lễ hội Gầu Tào đã trở thành hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng có ý nghĩa cao đẹp, thể hiện sự tri ân, hướng về tổ tiên, thần linh không chỉ của mỗi gia đình mà cả cộng đồng người mông... Tất cả điều đó đã làm nên sức sống mãnh liệt, trở thành nhu cầu, khát vọng không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Mông nói riêng, các dân tộc anh em khác nói chung./.
Trần Thị Liên